Macropodus spechti Macropodus generoko animalia da. Arrainen barruko Osphronemidae familian sailkatzen da.
Macropodus spechti Macropodus generoko animalia da. Arrainen barruko Osphronemidae familian sailkatzen da.
Macropodus spechti is een straalvinnige vissensoort uit de familie van de echte goerami's (Osphronemidae).[1] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1936 door Schreitmüller.
Bronnen, noten en/of referentiesWielkopłetw czarny[potrzebny przypis] (Macropodus spechti) – gatunek słodkowodnej ryby z rodziny guramiowatych (Osphronemidae). Krótko przed wybuchem II wojny światowej ryba ta pojawiła się w Niemczech.[potrzebny przypis]
Ten artykuł od 2013-05 wymaga zweryfikowania podanych informacji.Północno-zachodnie Borneo.
Dymorfizm płciowy- samce wielkopłetwa czarnego mają większe od samic i dłuższe płetwy. Ich ciało w okresie tarła jest ubarwione ciemnobrązowo, zaś samic jasno.
Dorasta do ok. 6 cm długości.
Wielkopłetwa czarnego można pielęgnować w akwarium jednogatunkowym lub wielogatunkowym. Musi być ono gęsto obsadzone roślinami, by wśród nich mogły znaleźć schronienie osobniki napastowane przez samca. Woda o temperaturze 20–26 °C, ph 6,5–7,8. Miękka do twardej, 5–22°n. Każdy pokarm dostępny w sprzedaży jest odpowiedni, zarówno żywy, suchy jak i mrożony.
W czasie zalotów godowych, a przede wszystkim podczas tarła i opieki nad potomstwem dochodzi do ostrych bójek. Samce budują pieniste gniazda z dużych pęcherzyków powietrza.
Cá cờ đen[2], tên khác cá cờ Huế, cá cờ than (danh pháp Macropodus spechti hoặc Macropodus Concolor) là một loài của họ Cá tai tượng đặc hữu từ Việt Nam. Chúng sống ở các dòng suối ở đồi, vùng trũng, vũng nước tù và các mương thủy lợi trong đất nông nghiệp (những con kênh dẫn nước bên cạnh những ruộng lúa) ở các lưu vực sông Hương và sông Thu Bồn ở các tỉnh miền trung như Huế, Quảng Trị.
Loài này phát triển đến chiều dài 5,8 xentimét (2,3 in) SL.[3] Số lượng gai vây lưng (tia cứng): 11 - 15; tia vây lưng (tia mềm): 4 - 9; gai vây hậu môn: 17; tia vây hậu môn: 11 – 14; đốt sống: 28 – 30. Chấm trên nắp mang rất mờ hoặc không có, thân có 4-12 sọc rất nhạt màu trên nền nâu nhạt hay không có gì hết, đầu và lưng không có chấm đen, khe và viền vảy đậm màu hơn vảy, chóp vây bụng (hay còn gọi là kỳ) màu đỏ, chấm và sọc đen trên vây lưng và đuôi, phần phía trước của vây lưng và đuôi có màu xanh, tia đuôi kéo dài có màu trắng hay đen ở gần chóp.
Sống ở miền nhiệt đới, trong môi trường nước ngọt, gần bề mặt, độ pH: 6.5 – 7.8; độ cứng dH: 20, nhiệt độ: 20 – 26 °C.
Tương tự Cá thiên đường.
Loài cá được nuôi làm cảnh, không có giá trị trong ngư nghiệp và chăn nuôi.
Cá cờ đen cũng được dùng để giải trí bằng cách cho cá đực chọi nhau như Cá thiên đường.
Cá cờ đen, tên khác cá cờ Huế, cá cờ than (danh pháp Macropodus spechti hoặc Macropodus Concolor) là một loài của họ Cá tai tượng đặc hữu từ Việt Nam. Chúng sống ở các dòng suối ở đồi, vùng trũng, vũng nước tù và các mương thủy lợi trong đất nông nghiệp (những con kênh dẫn nước bên cạnh những ruộng lúa) ở các lưu vực sông Hương và sông Thu Bồn ở các tỉnh miền trung như Huế, Quảng Trị.