Saussurea là một chi thực vật có hoa trong họ Cúc (Asteraceae).[2]
Chi này chứa khoảng 300-415 loài là bản địa khu vực ôn đới, núi cao và ven Bắc cực thuộc châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ. Sự đa dạng lớn nhất trong chi này là ở khu vực Himalaya, cao nguyên Thanh-Tạng và Trung Á.[3] Các tên gọi phổ biến trong tiếng Trung cho các loài thuộc chi này là phong mao cúc (风毛菊), tuyết liên hoa (雪莲花, cho một số loài như S. involucrata, S. laniceps, S. medusa, S. quercifolia), phá huyết đan (破血丹, S. acrophila) hay thụy linh thảo (瑞苓草, S. nigrescens).[3]
Chúng là thực vật thân thảo sống lâu năm, với chiều cao từ các loài thấp lùn núi cao chỉ 5–10 cm tới các loài cao tới 3 m trông giống như các cây kế (Carduus, Cirsium và Onopordum). Lá mọc thành một nơ lá rậm rạp ở sát gốc và sau đó uốn lượn lên phần thân mang hoa. Các hoa mọc thành một đầu hoa rậm rạp gồm nhiều cụm hoa nhỏ, thường được bao quanh bởi lông tơ mịn như len màu trắng hay tía; các chiếc hoa riêng lẻ cũng có màu trắng hay tía. Lông tơ rậm nhất ở các loài núi cao, có tác dụng điều chỉnh nhiệt của hoa, giảm thiểu tổn hại do sương giá ban đêm cũng như ngăn ngừa tổn hại do tia cực tím dưới ánh nắng chói chang trong khu vực núi cao.
De Candolle đặt tên chi này theo họ của nhà địa chất kiêm nhà thám hiểm Alp người Thụy Sĩ là Horace-Bénédict de Saussure (1740-1799) và con trai ông là nhà hóa học thực vật Nicolas-Théodore de Saussure (1767–1845).[4]
Saussurea được Sergej Julievitsch Lipschitz và Moisey Elevich Kirpicznikov (1979)[5] chia ra thành các phân chi và tổ như sau:
Một số loài mà Lipschitz và Kirpicznikov đặt trong chi Saussurea thì hiện tại được xếp trong các chi như Aucklandia, Frolovia, Lipschitziella, Himalaiella, Shangwua.[3][6][7]
Một số loài núi cao trong khu vực Himalaya được trồng làm cây cảnh vì có các đầu hoa đẹp. Chúng là những loại cây khó trồng do đã thích nghi với điều kiện khắc nghiệt ở độ cao 3.500–5.000 m như nhiệt độ thấp, thời kỳ ngủ đông dài (tới 8–10 tháng), yêu cầu cao về đất sỏi nhiều mùn và có độ thoát nước rất tốt.
Nhiều loài Saussurea được sử dụng trong y học cổ truyền, như S. arenaria, S. epilobioides, S. involucrata, S. laniceps, S. leucoma, S. medusa, S. obvallata và S. stella.[3] Một vài loài trong số này được thu hái và tiếp thị với số lượng lớn, vì thế cần có sự bảo vệ nghiêm ngặt hơn trong môi trường sống tự nhiên của chúng.[3]
Một số loài trong chi Saussurea như sau:
Saussurea là một chi thực vật có hoa trong họ Cúc (Asteraceae).
Chi này chứa khoảng 300-415 loài là bản địa khu vực ôn đới, núi cao và ven Bắc cực thuộc châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ. Sự đa dạng lớn nhất trong chi này là ở khu vực Himalaya, cao nguyên Thanh-Tạng và Trung Á. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Trung cho các loài thuộc chi này là phong mao cúc (风毛菊), tuyết liên hoa (雪莲花, cho một số loài như S. involucrata, S. laniceps, S. medusa, S. quercifolia), phá huyết đan (破血丹, S. acrophila) hay thụy linh thảo (瑞苓草, S. nigrescens).
Chúng là thực vật thân thảo sống lâu năm, với chiều cao từ các loài thấp lùn núi cao chỉ 5–10 cm tới các loài cao tới 3 m trông giống như các cây kế (Carduus, Cirsium và Onopordum). Lá mọc thành một nơ lá rậm rạp ở sát gốc và sau đó uốn lượn lên phần thân mang hoa. Các hoa mọc thành một đầu hoa rậm rạp gồm nhiều cụm hoa nhỏ, thường được bao quanh bởi lông tơ mịn như len màu trắng hay tía; các chiếc hoa riêng lẻ cũng có màu trắng hay tía. Lông tơ rậm nhất ở các loài núi cao, có tác dụng điều chỉnh nhiệt của hoa, giảm thiểu tổn hại do sương giá ban đêm cũng như ngăn ngừa tổn hại do tia cực tím dưới ánh nắng chói chang trong khu vực núi cao.
De Candolle đặt tên chi này theo họ của nhà địa chất kiêm nhà thám hiểm Alp người Thụy Sĩ là Horace-Bénédict de Saussure (1740-1799) và con trai ông là nhà hóa học thực vật Nicolas-Théodore de Saussure (1767–1845).