Anadara antiquata ist eine Muschel-Art aus der Familie der Archenmuscheln (Arcidae) in der Ordnung der Arcida. Sie kommt im Indopazifik vor.
Das stark geblähte Gehäuse wird bis zu 10 cm lang. In der Juvenilphase sind die Gehäuse leicht ungleichklappig, im Adultstadium sind sie dann gleichklappig. Sie sind stark ungleichseitig, die Wirbel sitzen im vorderen Drittel des Gehäuses. Die Gehäuse sind im Umriss länglich-eiförmig und besonders nach hinten zum unteren Ventralrand hin stark verlängert. Der Dorsalrand ist lang und gerade, der Vorderrand ist schwach gewölbt bis gerade. Vorderrand und Dorsalrand bilden einen fast rechteckigen bis leicht stumpfen Winkel. Der Dorsalrand und Hinterrand bilden dagegen einen sehr flachen Winkel. Der Hinterrand ist dann zunächst fast gerade und geht eng gerundet in den Ventralrand über. Die Wirbel sind nach vorne eingedreht. Das Dorsalfeld ist weit und die Wirbel sind sich angenähert. Das Ligament ist schmal-rhombenförmig.
Die Schlossplatte ist vergleichsweise breit. Der obere Rand ist gerade, der untere Rand leicht konkav gebogen. Das Schloss ist taxodont. Die Zähnchen sind mittig klein und stehen senkrecht. Sie werden zum Rand hin zunächst größer, nahe am Rand winkelartig (der Winkel zeigt nach innen), und ganz am Rand werden die Zähnchen wieder kleiner und mehr knotig.
Die weißliche Schale ist sehr dick und fest; die Gehäuse sind entsprechend schwer. Die Ornamentierung bestand aus ca. 35 radialstrahligen Rippen. Die Rippen sind breiter als die Abstände zwischen den Rippen. Sie sind oben abgeflacht und werden von Anwachslinien gekreuzt. An den Kreuzungsstellen sind schwache Knoten ausgebildet. Am Vorderrand können sich manche Rippen auch zum Gehäuserand hin zweiteilen. Der Innenrand ist kräftig gekerbt, die Kerben entsprechen den Furchen zwischen den Rippen. Das Periostracum ist bräunlich und besteht aus feinen Lamellen und Borsten. Es blättert aber leicht ab und ist meist nur am Gehäuserand und den Zwischenräumen zwischen den Rippen erhalten.
Anadara uropigimelana ist sehr ähnlich. Die Rippen sind fein gestreift, nicht knotig, und die Rippen am Vorderende teilen sich nicht.
Das Verbreitungsgebiet der Art ist der tropische Indopazifik. Die Art kommt auch im Roten Meer vor.
Die Tiere leben eingegraben in schlammigen Sandböden im Flachwasser.
Die Tiere ernähren sich als Filtrierer von Kleinstorganismen. Bei Studien in Ostafrika wurden in den Mägen von 80 untersuchten Exemplaren kein Zooplankton, sondern nur Phytoplankton gefunden.[2]
Die Art ist getrenntgeschlechtlich; bei einer größeren Untersuchung (> 1000 Tiere) wurden keine Hermaphroditen gefunden. In der Provinz Batangas (Philippinen) pflanzten sich die Tiere das ganze Jahr über fort mit zwei Peaks im März/April und Juni bis September. Die Geschlechtsprodukte werden ins freie Wasser abgegeben; dort findet die Befruchtung statt.[3] In Java (Indonesien) wurde dagegen ein kleiner Prozentsatz (protandrischer Hermaphroditen gefunden.[4]
Das Taxon wurde bereits 1758 von Carl von Linné als Arca antiquata aufgestellt.[5] Die Art ist die Typusart der Gattung Anadara Gray, 1847.[6] MolluscaBase verzeichnet folgende Synonyme: Arca scapha Gmelin, 1791, Anomalocardia transversalis H. Adams, 1872 und Anadara suggesta Iredale, 1939. Vermutlich handelt es sich bei diesem Taxon in Wirklichkeit um einen Art-Komplex, der dringend revidiert werden müsste.[7]
Anadara antiquata wird in Ostasien kommerziell gesammelt. In den Philippinen wird die Art sogar in Aquafarmen kultiviert.[8]
Anadara antiquata ist eine Muschel-Art aus der Familie der Archenmuscheln (Arcidae) in der Ordnung der Arcida. Sie kommt im Indopazifik vor.
An takal (Anadara antiquata L.; Ingles, nodular ark, granular ark, propeller ark, antique ark)[1][2] sarong bingkáy na takopan na an hitsura nakaagid sa punaw alagad igwa ining pinong kurit o li'gi' sa tibulaka na an direksyon pasiring sa bukahan. Maputiputi o kolor gatas ini. Hinihingap an laman kun ini ipapakilo na ta itinda o lulutoon. Ini sarong especies nin buskay na kabali sa pamilyang "Arcidae".
Sa kaamayi pa kan taon 1600, nalista na ini ni Marcos de Lisboa sa saiyang Vocabulario de la Lengua Bicol, asin ini an saiyang diskripsyon kan hayop na ini sa dagat na dakul sa harani kan Sola' kan San Miguel:
An mga taga-Sibobo, Calabanga sa Camarines Sur an paradara kan takal sa saod kan Ciudad nin Naga.
An hiningap na laman kaini pwedeng adobohon, pwedeng i-barbekyu o pwede man sangkap sa sinabawan. An bingkay kaini ginagamit na gayo sa konstruksyon ta nasirbing apog kan panahon sa pagdukot kan mga gapo sa pagtogdok nin mga simbahan kasalak sa timpla an kaputian kan sugok, galagala asin bandala.
An takal (Anadara antiquata L.; Ingles, nodular ark, granular ark, propeller ark, antique ark) sarong bingkáy na takopan na an hitsura nakaagid sa punaw alagad igwa ining pinong kurit o li'gi' sa tibulaka na an direksyon pasiring sa bukahan. Maputiputi o kolor gatas ini. Hinihingap an laman kun ini ipapakilo na ta itinda o lulutoon. Ini sarong especies nin buskay na kabali sa pamilyang "Arcidae".
Sa kaamayi pa kan taon 1600, nalista na ini ni Marcos de Lisboa sa saiyang Vocabulario de la Lengua Bicol, asin ini an saiyang diskripsyon kan hayop na ini sa dagat na dakul sa harani kan Sola' kan San Miguel:
tacal. unas almejas, que tiene la concha no lisa con una canalilla no lisa, como el ponao.An mga taga-Sibobo, Calabanga sa Camarines Sur an paradara kan takal sa saod kan Ciudad nin Naga.
Anadara antiquata is een tweekleppigensoort uit de familie van de Arcidae.[1] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1758 door Linnaeus.
Bronnen, noten en/of referentiesSò quéo (Danh pháp khoa học: Anadara antiquata) hay có tên gọi khác là sò dẹo, sò vẹo, sò méo bắt nguồn từ hình dáng bên ngoài của nó, là một động vật thân mềm hai mảnh vỏ trong họ sò. Ở Việt Nam, loại sò này phân bố chủ yếu ở vùng biển miền Trung kéo dài vào miền Nam, tuy phân bố trên diện rộng nhưng số lượng sò vẹo không nhiều.
Sò vẹo khá lớn, con trưởng thành to bằng hai ngón tay người lớn. Sò quéo có hình dáng hơi xù xì, gần giống như con vẹm xanh nhưng lớn hơn, nướng mỡ hành với phần thịt dai mềm ăn rất hấp dẫn. Tên gọi sò quéo bắt nguồn từ hai chiếc vỏ hơi cong của nó. Con sò quéo rất dễ phân biệt với các loại sò khác, chỉ cần nhìn qua hình dạng bề ngoài. Chúng có thịt ngọt, thơm ngon, lành tính nên được nhiều người ưa thích, loại sò này thường được bán với giá cao hơn so với các loại hải sản phổ biến khác. Chúng có thịt chắc, dày và thơm ngậy.
Chúng sinh trưởng trong môi trường tự nhiên, chủ yếu là sống trong các ghềnh đá, rặng san hô, muốn đánh bắt chúng, ngư dân phải lặn xuống gỡ từng con một. Sò quéo phân bố nhiều ở các tỉnh miền Trung, ngư dân thường bắt chúng trong các gành đá hay bên ngoài lồng bè nuôi tôm hùm vì chúng thường đu bám để ăn ké thức ăn của tôm. Sò quéo thường sống trong các gành đá hoặc đu bám trên các bè nuôi tôm để tìm kiếm thức ăn. Mùa hè là mùa sò quéo rộ nhất trong năm.
Sò vẹo bắt về được rửa sạch và chế biến thành nhiều món ăn ngon như nấu cháo, hấp, luộc. Riêng sò vẹo nướng mỡ hành[1], đây là món chế biến khá công phu nhưng lại được nhiều người ưa thích vì cho thịt ngọt, giòn ngon và hơi béo. Để làm món này, phải chọn con sò còn sống thì khi chế biến thịt sò mới giòn, thơm ngọt. Sò được rửa sạch vỏ bên ngoài, rồi đem luộc vừa há miệng (không luộc chín vì khi nướng sẽ làm thịt sò khô, không có vị ngọt) thì vớt ra.
Sò được tách bỏ một bên vỏ, rồi xếp lên vỉ nướng chín trên bếp than hồng. Khi thịt sò tiết nước ra, bắt đầu cho mỡ hành lên, nướng đến khi món ăn tỏa mùi thơm nức của mỡ hành thì gắp sò ra đĩa, rắc lên ít đậu phộng rang rồi dùng khi còn nóng. Thịt sò vẹo nướng chín căng tròn, cùng với đó là hương thơm thoang thoảng của mỡ hành. Thịt sò giòn giòn, vị ngọt đặc trưng hòa với vị đậm đà của nước chấm đang lan tỏa trong miệng.
Sò quéo (Danh pháp khoa học: Anadara antiquata) hay có tên gọi khác là sò dẹo, sò vẹo, sò méo bắt nguồn từ hình dáng bên ngoài của nó, là một động vật thân mềm hai mảnh vỏ trong họ sò. Ở Việt Nam, loại sò này phân bố chủ yếu ở vùng biển miền Trung kéo dài vào miền Nam, tuy phân bố trên diện rộng nhưng số lượng sò vẹo không nhiều.
古蚶或古毛蚶(学名:Anadara antiquata)[4],又名舟毛蚶(学名:Anadara scapha)[1],是魁蛤目魁蛤科粗饰蚶属的一种[1][4][3]。
在西太平洋,主要分佈於台湾[1][4]、新加坡、印度尼西亚、中国大陆[4],常栖息在浅海沙底[1][4]。
在印度洋,主要分佈於查戈斯群岛、馬斯克林深海高原、肯雅滨海省的蒙巴薩及鄰近的基西特國家海洋公園和自然保護區(英语:Kisite-Mpunguti Marine National Park)[5]、馬達加斯加、紅海、毛里裘斯及坦桑尼亞[3]。
古蚶在越南叫作「Sò quéo」,是常見的貝殼類美食,一般會佐以洋蔥、香茅或辣椒在貝肉的面,然後整個連殼來燒烤[6]。
本物種已知是Anthessius nosybensis Kim I.H., 2009的宿主[3]。