Ompok bimaculatus és una espècie de peix de la família dels silúrids i de l'ordre dels siluriformes.
Els mascles poden assolir els 45 cm de llargària total.[4][5]
Es troba des de l'Afganistan fins a la Xina, Tailàndia i Borneo, incloent-hi els Ghats Occidentals (Índia).[4]
Ompok bimaculatus és una espècie de peix de la família dels silúrids i de l'ordre dels siluriformes.
Ompok bimaculatus, known as butter catfish, is a species of sheatfishes native to Asian countries such as Bangladesh, India, Pakistan, and Sri Lanka, but recently identified in Myanmar.[2][3]
Known in Thailand as pla cha-on (ปลาชะโอน), it is one of the very similar catfish species known in the markets as pla nuea on (วงศ์ปลาเนื้ออ่อน). It is valued for its delicate flesh and is also used for making high-quality fish balls.[4] Males can reach a length of 45 cm.
Ompok bimaculatus, known as butter catfish, is a species of sheatfishes native to Asian countries such as Bangladesh, India, Pakistan, and Sri Lanka, but recently identified in Myanmar.
Known in Thailand as pla cha-on (ปลาชะโอน), it is one of the very similar catfish species known in the markets as pla nuea on (วงศ์ปลาเนื้ออ่อน). It is valued for its delicate flesh and is also used for making high-quality fish balls. Males can reach a length of 45 cm.
Ompok bimaculatus es una especie de peces de la familia Siluridae en el orden de los Siluriformes.
• Los machos pueden llegar alcanzar los 45 cm de longitud total.[1][2]
Se encuentra desde el Afganistán hasta la China, Tailandia y Borneo, incluyendo los Ghats Occidentales (India).
Ompok bimaculatus is een straalvinnige vissensoort uit de familie van echte meervallen (Siluridae).[2] De wetenschappelijke naam van de soort is voor het eerst geldig gepubliceerd in 1794 door Bloch.
De soort staat op de Rode Lijst van de IUCN als Gevoelig, beoordelingsjaar 2009.[1]
Bronnen, noten en/of referentiesЗагальна довжина сягає 45 см. Самці стрункіші. Голова середнього розміру. Морда округла. Очі невеликі. Є 4 пари вусів, з яких 2 верхньощелепні пари є довгими. Рот доволі великий. Нижня щелепа довша за верхню. Тулуб подовжений, сильно стиснутий. Спинний плавець маленький. Грудні та черевні плавці помірні. Анальний плавець дуже довгий. Хвостовий плавець роздвоєний, верхня лопать довша за нижню.
Забарвлення бежево-коричневе з нерівномірними фіолетовими та жовтими плямами по всьому тілу. Спина сірого кольору. Має 2 чорні плями, з яких одна знаходиться вище й позаду грудного плавця, інша — в основі хвостового плавця
Є демерсальною рибою. Трапляється у річках, ставках та озерах з чорною водою та піщаним ґрунтом. Вдень ховається серед заростей рослин. Активний уночі. Живиться ракоподібними, молюсками, дрібною рибою.
Є об'єктом місцевого промислу.
Мешкає у річках Пакистану, Індії, Шрі-Ланки, Бангладеш, М'янми, Таїланду.
Cá trèn bầu (Danh pháp khoa học: Ompok bimaculatus) là một loài cá da trơn trong họ Siluridae. Đây là một loài có giá trị kinh tế và là nguyên liệu để chế biến thành những món ẩm thực dân dã.
Chúng là loài cá bản địa của châu Á, phân bố tại Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Việt Nam, hiện hành chưa xác định được có ở Myanmar hay không. Cá trèn bầu có nguồn gốc ở Biển Hồ, Campuchia. Hằng năm, cứ theo mùa nước lũ trên dòng Mê Kông hào sảng, cá trèn nối đuôi nhau về hạ nguồn sông Cửu Long[1].
Cá có thân dài, dẹp bên, viền lưng hơi cong, đầu rộng, mõm tù, miệng rộng, rạch miệng kéo dài gần đến mắt, hàm dưới nhô ra, hàm dưới dài hơn hàm trên (trớt môi). Mắt nhỏ, ẩn dưới da. Cá có 2 đôi râu:
Cá trèn bầu bụng phệ, có màu vàng xanh, thịt béo[1]. Trong số các loại cá trèn, cá trèn bầu là ngon hơn cả vì thịt nhiều, ngon ngọt, ít xương với cục thịt nạc gù lên trên sống lưng, ta còn phải kể đến phần bụng hay còn gọi là cái nọng rất béo của cá[2]. Về kích thước thương mại, người nội trợ thường chọn những con cá to dài từ 35 đến 50 cm[3].
Vây lưng có khởi điểm đối xứng với khởi điểm vây bụng, vây ngực tương đối phát triển, vây hậu môn dài, không liền với vây đuôi, vây đuôi phân thùy. Thân trần, không phủ vẩy, đường bên hoàn toàn, thân màu nâu xám, rải rác có đám sắc tố màu đen, có đốm đen sau nắp mang và phía trên vây ngực, ở cá thể nhỏ còn có 1 đốm đen nhỏ ở gốc vây đuôi.
Cá trèn bầu được biết đến ở Thái như là Pla cha on (ปลาชะโอน) là một trong những loài tương đồng với Pla nuea on (วงศ์ปลาเนื้ออ่อน) hay bán ở chợ ở những vùng trên đất Thái Lan. Nó là loài có giá trị kinh tế cao và hay bán như cá mồi[4].
Cá trèn bầu được dùng là nguyên liệu cho những món ăn ngon, được nhiều người chọn mua để chế biến những món ăn ngon hợp với khẩu vị gia đình như cá trèn kho tiêu, kho lạt, kho nghệ, chiên giòn, làm khô hay mắm[3]. Trèn bầu làm khô, kho mẳn (kho lạt), kho nghệ…[5], cá trèn bầu kho tộ, đây là món ăn dân dã của miệt đồng bằng sông nước Cửu Long. Trong văn hóa còn có câu: Cá lưỡi trâu sầu ai méo miệng/Cá trèn bầu nhiều chuyện trớt môi[1].
Cá trèn bầu (Danh pháp khoa học: Ompok bimaculatus) là một loài cá da trơn trong họ Siluridae. Đây là một loài có giá trị kinh tế và là nguyên liệu để chế biến thành những món ẩm thực dân dã.