Hodgsonia macrocarpa ist eine Pflanzenart aus der Gattung Hodgsonia innerhalb der Familie der Kürbisgewächse (Cucurbitaceae). Sie kommt im mittleren bis nördlichen Südostasien vor.
Hodgsonia macrocarpa wächst als immergrüne und verholzende, trockenheitsresistente, schnellwüchsige Kletterpflanze. Die schlanken und meist kahlen Sprossachsen können bis zu 30 Meter lang werden, die Ranken sind zwei- bis dreiteilig.
Die wechselständig angeordneten, einfachen Laubblätter sind in Blattstiel und -spreite gegliedert. Der schlanke Blattstiel ist bis etwa 8 Zentimeter lang. Die ledrige Blattspreite ist bei einer Länge von 20 bis 30 Zentimetern im Umriss breit-eiförmig bis fast rundlich und meist handförmig geteilt mit meist drei bis fünf Blattlappen. Seltener sind die Blattspreiten kleiner und nur zweilappig, elliptisch oder ungeteilt, eilanzettlich. Die Spreitenbasis ist mehr oder weniger herz- bis pfeilförmig oder gestutzt. Die Blattlappen sind meist ganzrandig und zugespitzt bis bespitzt, seltener abgerundet bis eingebuchtet. Die Blattflächen sind meist kahl und etwas wachsig. Es sind kleine, dornenförmige „Probrakteen“ vorhanden. Es sind verschiedene extraflorale und florale Nektarien vorhanden, z. B. unterseits an den Blättern, außen am/beim Kelch und an den Früchten sowie in den Achseln von Seitensprossen.
Hodgsonia macrocarpa ist zweihäusig getrenntgeschlechtig (diözisch). Die Blüten erscheinen jeweils achselständig. Die männlichen, kurz gestielten Blüten, mit jeweils einem kleinen, recht beständigen Tragblatt, stehen in rostfarbenen, fein behaarten und langstieligen, steifen traubigen Blütenständen. Die langstieligen weiblichen Blüten erscheinen meist einzeln. Die relativ großen und duftenden Blüten sind fünfzählig mit doppelter Blütenhülle. Der sehr lange, leicht trompetenförmige, grün-rötliche, mehr oder weniger drüsige Blütenbecher ist röhrig verlängert und oben leicht geweitet; er ist bei den weiblichen Blüten kürzer sowie beim Fruchtknoten samtig, rostig behaart. Die Kelchblätter sind nur sehr kleine Zipfel. Die Blütenkronen sind weißlich bis gelblich. Die langen, außen rötlich geaderten und samtigen, freien, verkehrt-keilförmigen, ausladenden Petalen haben lange, fransige und herabhängende Anhängsel. Die drei (5 und 4 sind paarig verwachsen) kurzen, freien und meist eingeschlossenen Staubblätter, oben im geweiteten Teil der langen Röhre, sind an den Antheren verwachsen. Der große, kugelige und mehrkammerige Fruchtknoten ist unterständig mit einem langen, knapp vorstehenden und schlanken Griffel mit großer, dreilappiger und verkehrt-konischer Narbe. Es ist bei den männlichen Blüten ein langlappiger Diskus vorhanden, bei den weiblichen fehlt er. Die Blüten öffnen sich nachts.
Es werden bis zu 13–23 Zentimeter große, schwere, gräulich-grüne, kürbisförmige und dünn, hartschalige, schwach rippige, mehrsamige sowie feinhaarige, manchmal etwas warzige, fest fleischige Steinfrüchte (einzig bei Kürbisgewächsen) gebildet. Es sind meist sechs 5,5–8,5 Zentimeter lange Steinkerne (Pyrene, Nüsse) mit holzig-knochiger Schale enthalten. Die meist ein- bis dreisamigen, großen und abgeflachten, etwa elliptischen, einseitig geraden, braunen Steinkerne sind teils mehr oder weniger runzlig bis furchig und einseitig geschlitzt. Die flachen, korkigen und weißlichen Samen sind rundum minimal geflügelt und mit einer, in eine dünne, brüchige Testa und ein Tegmen gegliederten Samenschale. Sie enthalten große, flache Kotyledonen, aber kein Endosperm.
Die Erstbeschreibung erfolgte 1826 unter dem Namen (Basionym) Trichosanthes macrocarpa durch Carl Ludwig Blume in Bijdragen tot de flora van Nederlandsch Indië, 15, S. 935. Die Neukombination zu Hodgsonia macrocarpa (Blume) Cogn. wurde 1881 durch Alfred Cogniaux in Monographiae Phanerogamarum, 3, S. 349 veröffentlicht.
Synonyme sind Hodgsonia capniocarpa Ridl., Trichosanthes hexasperma Blume, Trichosanthes kadam Miq., Trichosanthes macrocarpa Blume.
Die Samen werden geröstet oder gekocht verwendet. Die stark fetthaltigen Samen haben einen angenehmen Geschmack. Auch wird aus ihnen ein butteriges Speisefett (Kadamfett, -öl) gewonnen, welches nach Speck schmeckt.[1]
Die Blätter werden medizinisch verwendet.
Hodgsonia macrocarpa ist eine Pflanzenart aus der Gattung Hodgsonia innerhalb der Familie der Kürbisgewächse (Cucurbitaceae). Sie kommt im mittleren bis nördlichen Südostasien vor.
Đài hái hay còn gọi beo, sén, huất sơn, du qua, dây mỡ lợn, dây hái, then hái, mướp rừng,[1][2] (danh pháp khoa học: Hodgsonia macrocarpa) là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được (Blume) Cogn. mô tả khoa học đầu tiên năm 1881.[3]
Đài hái là một loại thực vật dây leo, mọc khỏe, có thân nhẵn và có thể dài đến hơn 30 m. Chúng có lá hình tim, phiến lá chia ra 3 hoặc 5 thùy, chiều rộng khoảng chừng từ 15 đến 25 cm. Mặt trên phiến lá có màu xanh lục, mặt dưới màu xanh nhạt hơn, dai và cứng nhẵn; hình dáng thùy thuôn dài và có đầu nhọn. Khi lá còn non, lá có thể không chia thùy hoặc chỉ chia ra 2 thùy.
Tua cuốn của đài hái to khỏe và quăn xoắn. Hoa đực mọc thành từng chùm với dạng ngù, hoa cái ngược lại mọc đơn độc ở kẽ lá. Khi ra quả, quả đài hái có hình cầu và to bằng đầu người, có đường kính lên đến 20 cm, trên bề mặt quả có khoảng 10 đến 12 khía trông không rõ, cùi màu trắng.
Mỗi quả có từ 6 đến 12 hạt, mỗi hạt rất to dài đến 8 cm và rộng 5 cm, có hình trứng dẹt, có lá mầm rất phát triển với một mặt phẳng một mặt khum.[1]
Đài hái là một loại cây đẹp, chúng mọc hoang, leo lên trên các cây to khác trong rừng, phía trên chúng chia thành nhiều cành mọc xen kẽ nhau và phủ lên trên cây chủ tựa như những lá màu xanh thẫm, trông rất độc đáo.
Do hạt của cây nhẹ và có thể nổi trên mặt nước, vào mùa mưa, hạt có thể trôi theo dòng suối và sông ngòi ra tận ngoài bờ biển.
Quả có thể được thu hoạch vào các tháng 11, 12 hoặc tháng 1, 2 năm sau.
Phân bố ở một số tỉnh ở miền nam Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Nhật Bản.
Được tìm thấy ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh miền núi nói chung.
Hạt của cây đài hái có chứa rất nhiều dầu, tỷ lệ có thể đạt từ tới 60% đến 70%. Dầu của hạt hơi đặc, có màu vàng nhạt, không mùi, không vị và tương tự như mỡ lợn, do đó còn có tên là cây mỡ lợn. Khi để cho dầu lắng, phân tách thành hai lớp, lớp ở trên chứa khoảng 20% panmitin, lớp dưới phần lớn là chất olein. Hạt không có tính độc.
Có thể nướng quả và sử dụng như một loại thực phẩm. Ngoài ra, hạt có thể ép làm dầu ăn thay mỡ lợn hoặc dùng để thắp đèn. Tại đảo Borneo, Indonesia, người ta dùng dầu đài hái để xoa bụng những người phụ nữ vừa ở cữ cũng như trộn chung với tro lá địa liền và dầu dừa để bôi vào vú phụ nữ bị sưng. Lá có thể dùng để chữa bệnh loét mũi bằng cách sắc hay đốt lấy khói xông. Nước ép từ thân đài hái cũng dùng để chữa bệnh này.[1]
Cây đài hái có thể trồng bằng hạt hoặc giâm cành. Khi giâm cành, người ta cắt thân ra những mẫu khoảng từ 40 đến 50 cm, khoanh tròn, trồng vào những hố đã đào sẵn từ trước. Hố phải sâu từ 50 đến 60 cm, rộng chừng 35 đến 40 cm và đã đổ sẵn phân tro.
Sau hai năm, một cây có thể cho trung bình từ 50 đến 60 quả hoặc hơn tùy vào điều kiện chăm sóc. Đặc biệt có trường hợp lên đến 200 quả.[1]
Đài hái hay còn gọi beo, sén, huất sơn, du qua, dây mỡ lợn, dây hái, then hái, mướp rừng, (danh pháp khoa học: Hodgsonia macrocarpa) là một loài thực vật có hoa trong họ Cucurbitaceae. Loài này được (Blume) Cogn. mô tả khoa học đầu tiên năm 1881.
油渣果(学名:Hodgsonia macrocarpa)为葫芦科油渣果属下的一个种。
|access-date=
中的日期值 (帮助)