Die Familie der Grubenaale (Synaphobranchidae) besteht aus fast 40 Arten. Sie haben einen kräftigen Körper mit Schuppen und große Kiefer mit kleinen Zähnen. Die Haut ist mit verkümmerten Schuppen besetzt. Hier bildet aber die Gattung Haptenchelys eine Ausnahme: sie sind schuppenlos. Charakteristisch für diese Aale sind die äußeren Kiemenöffnungen, die in einer spaltförmigen Grube auf der Bauchseite zwischen den Brustflossen liegen. Die Larven besitzen Teleskopaugen.
Sie kommen im Atlantischen und Stillen Ozean vor und leben in der Tiefsee zwischen 400 und 2000 m bei Wassertemperaturen um durchschnittliche 5 °C.
Die Nahrung besteht aus Krebsen und Fischen. Im Magen von Synaphobranchus kaupi, der in einer Tiefe von 1000 m gefangen wurde, wurden Krakeneier gefunden.
Die Familie der Grubenaale (Synaphobranchidae) besteht aus fast 40 Arten. Sie haben einen kräftigen Körper mit Schuppen und große Kiefer mit kleinen Zähnen. Die Haut ist mit verkümmerten Schuppen besetzt. Hier bildet aber die Gattung Haptenchelys eine Ausnahme: sie sind schuppenlos. Charakteristisch für diese Aale sind die äußeren Kiemenöffnungen, die in einer spaltförmigen Grube auf der Bauchseite zwischen den Brustflossen liegen. Die Larven besitzen Teleskopaugen.
Cutthroat eels are a family, Synaphobranchidae, of eels, the only members of the suborder Synaphobranchoidei. They are found worldwide in temperate and tropical seas.[2][3]
Cutthroat eels range from 23 to 160 cm (9.1 to 63.0 in) in length. They are bottom-dwelling fish, found in deep waters down to about 3,700 m (12,100 ft).[4] They are distinguished by the presence of telescopic eyes in the larvae. In some classifications (for example, ITIS), this family is split, with Simenchelys in its own family, the Simenchelyidae.
Cutthroat eels are a family, Synaphobranchidae, of eels, the only members of the suborder Synaphobranchoidei. They are found worldwide in temperate and tropical seas.
Cutthroat eels range from 23 to 160 cm (9.1 to 63.0 in) in length. They are bottom-dwelling fish, found in deep waters down to about 3,700 m (12,100 ft). They are distinguished by the presence of telescopic eyes in the larvae. In some classifications (for example, ITIS), this family is split, with Simenchelys in its own family, the Simenchelyidae.
Los sinafobránquidos (Synaphobranchidae) son una familia de peces teleósteos del orden Anguilliformes conocidos vulgarmente como anguilas branquias bajas, distribuidos por los océanos Atlántico, Índico y Pacífico.[1] Su nombre procede del griego: synaphe (unión, adyacente) + brangchia (branquias).[2]
Abertura de las branquias colocada en una posición baja del cuerpo, por debajo o al mismo nivel de la base de la aleta pectoral, la cual puede estar ausente en algunas especies; poseen ojos telescópicos en estado larvario.[1]
Existen 38 especies agrupadas en 12 géneros:[3]
Los sinafobránquidos (Synaphobranchidae) son una familia de peces teleósteos del orden Anguilliformes conocidos vulgarmente como anguilas branquias bajas, distribuidos por los océanos Atlántico, Índico y Pacífico. Su nombre procede del griego: synaphe (unión, adyacente) + brangchia (branquias).
Abertura de las branquias colocada en una posición baja del cuerpo, por debajo o al mismo nivel de la base de la aleta pectoral, la cual puede estar ausente en algunas especies; poseen ojos telescópicos en estado larvario.
Synaphobranchidae arrain angiliformeen familietako bat da, mundu osoko ur epel eta tropikaletan bizi dena.[1]
23 eta 160|cm. arteko luzera dute. Itsasoen hondoetan bizi dira, baita 3.700 metroko sakoneran ere.[2]
FishBasek 38 espezie dituela dio:[3], baina beste adituek (ITISek adibidez[4]) Simenchelys generoak bere familia duela diote, Simenchelyidae izenekoa.
Synaphobranchidae arrain angiliformeen familietako bat da, mundu osoko ur epel eta tropikaletan bizi dena.
23 eta 160|cm. arteko luzera dute. Itsasoen hondoetan bizi dira, baita 3.700 metroko sakoneran ere.
Petoankeriaat (Synaphobranchidae) on ankeriaskaloihin kuuluva heimo. Heimon lajeja tavataan kaiskista lämpimistä ja lauhkeista valtameristä.
Petoankeriaiden heimoon kuuluu lähteestä riippuen 10–12 sukua ja 26–38 lajia. Lajeja ovat muunn muassa naskaliankerias (Dysomma anguillare) ja petoankerias (Synaphobranchus kaupi). Ruumiinrakenteeltaan ne ovat melko pitkulaisia mutta tukevahkoja kaloja. Kooltaan ne jäävät yleensä alle metrin mittaisiksi, mutta suurimmat lajit voivat saavuttaa 1,8 metrin pituuden. Tyypillisiä piirteitä ovat kookas jopa silmän taakse ulottuva suu ja lähellä rintaeviä sijaitseva kidusaukko. Kalojen selkä- ja peräevät ovat pitkät ja yhtyneet pyrstöevän kanssa. Rintaevät puuttuvat eräiltä lajeilta. Petoankeriaiden heimon lajien Leptocephalus-toukalla on poikkeukselliset teleskooppimaiset silmät. Useilla petoankeriaslajeilla on suomut ja ne ovat väriltään yksivärisen ruskeita tai harmaita.[1][2][3][4][5]
Petoankeriaslajeja tavataan Atlantin, Intian valtameren ja Tyynenemren alueilta. Ne elävät tyypillisesti mannerjalustojen läheisyydessä ja lähellä pohjaa usein 100–2 000 metrin syvyydessä. Petoanekriaista useimmat ovat petokaloja, jotka saalistavat pieniä kaloja tai selkärangattomia, mutta mukaan mahtuu myös raadonsyöjiä kuten töppöankerias (Simenchelys parasiticus).[1][3][5]
Petoankeriaat (Synaphobranchidae) on ankeriaskaloihin kuuluva heimo. Heimon lajeja tavataan kaiskista lämpimistä ja lauhkeista valtameristä.
Les anguilles égorgées (Synaphobranchidae) est une famille de poissons téléostéens serpentiformes.
Les anguilles égorgées (Synaphobranchidae) est une famille de poissons téléostéens serpentiformes.
I Synaphobranchidae sono una famiglia di pesci ossei appartenenti all'ordine Anguilliformes.
Questa famiglia è cosmopolita. Nel mar Mediterraneo è presente la specie Dysomma brevirostre.
Molte specie sono abissali.
Questa famiglia è molto affine ai Nettastomatidae, a cui in passato è stata riunita ma se ne distingue soprattutto per il muso più breve. Le aperture branchiali sono poste molto in basso sul corpo. Le pinne pettorali possono essere assenti o presenti a seconda delle specie.
Quasi ignota. Le larve sono leptocefali ed hanno occhi telescopici.
I Synaphobranchidae sono una famiglia di pesci ossei appartenenti all'ordine Anguilliformes.
Suaugtažiauniai unguriai (Synaphobranchidae) – unguriažuvių (Anguilliformes) šeima. Paplitę Atlanto, Indijos ir Ramiajame vandenynuose.
Šeimoje yra 12 genčių, 36 rūšys.
Suaugtažiauniai unguriai (Synaphobranchidae) – unguriažuvių (Anguilliformes) šeima. Paplitę Atlanto, Indijos ir Ramiajame vandenynuose.
Šeimoje yra 12 genčių, 36 rūšys.
Kuilalen (Synaphobranchidae) zijn een familie van straalvinnige vissen uit de orde van Palingachtigen (Anguilliformes).[1]
Kuilalen (Synaphobranchidae) zijn een familie van straalvinnige vissen uit de orde van Palingachtigen (Anguilliformes).
Synaphobranchidae – rodzina morskich ryb węgorzokształtnych (Anguilliformes) obejmująca około 40 gatunków, występujących w wodach Oceanu Atlantyckiego, Indyjskiego i Spokojnego[2].
Charakteryzują się niskim położeniem otworów skrzelowych. U niektórych gatunków brak płetw piersiowych. Liczba kręgów w przedziale od 110 do 205. U larw występują diagonalnie wydłużone (tzw. teleskopowe) oczy[2][3].
Rodzaje zaliczane do tej rodziny[4]:
Atractodenchelys – Diastobranchus – Dysomma – Dysommina – Haptenchelys – Histiobranchus – Ilyophis – Linkenchelys – Meadia – Simenchelys – Synaphobranchus – Thermobiotes
Rodzajem typowym rodziny jest Synaphobranchus.
Synaphobranchidae – rodzina morskich ryb węgorzokształtnych (Anguilliformes) obejmująca około 40 gatunków, występujących w wodach Oceanu Atlantyckiego, Indyjskiego i Spokojnego.
Charakteryzują się niskim położeniem otworów skrzelowych. U niektórych gatunków brak płetw piersiowych. Liczba kręgów w przedziale od 110 do 205. U larw występują diagonalnie wydłużone (tzw. teleskopowe) oczy.
Synaphobranchidae é uma família de peixes actinopterígeos pertencentes à ordem Anguilliformes, subordem Synaphobranchoidei.
Synaphobranchidae[1] är en familj av fiskar som ingår i ordningen ålartade fiskar (Anguilliformes).[1] Enligt Catalogue of Life omfattar familjen Synaphobranchidae 38 arter[1].
Kladogram enligt Catalogue of Life[1]:
ålartade fiskar Synaphobranchidae
Họ Cá chình họng xẻ (tên tiếng Anh: cutthroat eels) hay họ Cá chình mang liền (tên khoa học: Synaphobranchidae) là một họ cá chình được tìm thấy được tìm thấy ở vùng biển ôn đới và nhiệt đới tại Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.[1][2]
Tên gọi khoa học của họ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp synaphe, -es (liên hợp, hợp nhất, nối liền) và brangchia (mang cá).
Các loài cá trong họ này có chiều dài trong khoảng 23 đến 160 cm (9,1 đến 63,0 in). Chúng là cá ăn đáy, tìm thấy trong các vùng nước sâu tới khoảng 3.700 m (12.100 ft).[3] Chúng được phân biệt bởi có mắt lồi (mắt hình ống với thủy tinh thể hình cầu nằm trên đỉnh) khi ở dạng ấu trùng, trong khi ấu trùng của các họ cá chình khác có hệ thống thị giác với võng mạc chủ yếu là tế bào hình que.
Trong một số hệ thống phân loại (chẳng hạn như ITIS trước đây) thì họ này được phân chia nhỏ, với Simenchelys trong họ của chính nó là Simenchelyidae.
Là nhóm cá chình kích thước nhỏ tới trung bình, với các loài lớn nhất có thể dài tới 1,8 m, nhưng phần lớn dài không quá 1 m. Thân mập tới thuôn dài, hậu môn thường nằm trước đoạn giữa thân khá nhiều. Đầu tùy biến. Mắt từ khá phát triển tới suy giảm. Mõm có thể ngắn và tù hoặc hơi thuôn dài. Miệng thường to, khóe miệng thường kéo dài quá mép sau của mắt; môi thường không có mép nhiều thịt; hai hàm gần như cân đối, đôi khi mõm ngắn hơn hàm sau hoặc ngược lại. Lỗ mũi trước hình ống, gần đỉnh mõm; lỗ mũi sau trên mặt bên của mõm, ở tại mức giữa mắt hoặc thấp hơn.[4]
Răng thường nhỏ và hình nón, xếp thành 1 tới vài hàng trên 2 hàm và trên xương lá mía; một số loài có các răng kép phình to trên xương lá mía, nhưng không có các răng nanh lớn. Các lỗ mang nằm thấp trên thân, phía dưới vây ngực (nếu có); đôi khi các lỗ mang của 2 bên hợp lại thành một khe nứt ở mặt bụng[4] hoặc gần hợp lại trông như vết dao cắt ở cổ, và đây chính là đặc điểm để gọi chúng là cá chình họng xẻ hay cá chình mang liền. Vây lưng và vây hậu môn khá phát triển, hợp lại với vây đuôi. Có hoặc không có vây ngực.
Có hoặc không có vảy. Đường bên tùy biến, thường đầy đủ nhưng đôi khi suy giảm xuống chỉ còn vài lỗ ở phần trước hoặc đôi khi không còn. Màu sắc: nâu nhạt hay xám, đôi khi có sắc thái đối lập giữa mặt lưng và mặt bụng. Không có các vết màu khác biệt.[4]
Hiện tại, 40 loài trong 12 chi chia ra làm 3 phân họ được công nhận.[5][6]
Dysomma anguillare
Họ Cá chình họng xẻ (tên tiếng Anh: cutthroat eels) hay họ Cá chình mang liền (tên khoa học: Synaphobranchidae) là một họ cá chình được tìm thấy được tìm thấy ở vùng biển ôn đới và nhiệt đới tại Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Tên gọi khoa học của họ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp synaphe, -es (liên hợp, hợp nhất, nối liền) và brangchia (mang cá).
Các loài cá trong họ này có chiều dài trong khoảng 23 đến 160 cm (9,1 đến 63,0 in). Chúng là cá ăn đáy, tìm thấy trong các vùng nước sâu tới khoảng 3.700 m (12.100 ft). Chúng được phân biệt bởi có mắt lồi (mắt hình ống với thủy tinh thể hình cầu nằm trên đỉnh) khi ở dạng ấu trùng, trong khi ấu trùng của các họ cá chình khác có hệ thống thị giác với võng mạc chủ yếu là tế bào hình que.
Trong một số hệ thống phân loại (chẳng hạn như ITIS trước đây) thì họ này được phân chia nhỏ, với Simenchelys trong họ của chính nó là Simenchelyidae.
В стадии лептоцефала слитножаберные угри могут распространяться на достаточно большие расстояния, но проходят метаморфоз на глубине.
Обитают на глубинах до 3000—4000 метров во всех океанах, главным образом в тропической зоне. Хотя некоторые из слитножаберных угрей встречаются далеко за границами тропиков — вплоть до Исландии и Берингова моря, но в этих широтах они, вероятно, не могут размножаться.
Слитножаберные угри — хищники и пожиратели падали, питающиеся рыбой, головоногими моллюсками и ракообразными.
通鰓鰻科下分12個屬,如下:
ホラアナゴ科(学名:Synaphobranchidae)は、ウナギ目に所属する魚類の分類群の一つ。ホラアナゴ・コンゴウアナゴなど、底生性の深海魚を中心に3亜科10属32種が含まれる[2]。科名の由来は、ギリシア語の「synaphe(つながった)」と「brangchia(鰓)」から[3]。
ホラアナゴ科の魚類はすべて海水魚で、太平洋・インド洋・大西洋など全世界の深海に広く分布する[2]。海底付近で生活する底生魚の一群であり、多くの種類は水深1,000~3,500mの漸深層を主たる生息範囲としている[4]。底生性深海魚のグループとしてはソコダラ科(タラ目)・アシロ科(アシロ目)・トカゲギス科(ソトイワシ目)などと並ぶ重要な存在である。一般に肉食性で、他の魚類や甲殻類を捕食するほか、コンゴウアナゴのように他の生物の遺骸を専食するものもいる[5]。
ホラアナゴ類の生態および生活史はあまりよくわかっていない[5]。カライワシ上目のグループに共通する特徴として、本科魚類もまたレプトケファルスと呼ばれる独特の仔魚期を経て成長する。本科のレプトケファルスの眼は斜めに細長く伸び、水晶体が極度に前方に寄った管状眼となっている[2][4]。
ホラアナゴ類は他のウナギ目の仲間と同様に細長い体をもち、全長20~180cm程度に成長する中・大型の魚類である[3]。頭部は種類によっては上下に平たく縦扁するが、体部は側扁し左右に平たくなっている。
3亜科に共通する主な形態学的特徴は以下の通り[2]。鰓の開口部は胸鰭よりも低い位置にあり、一部の種類は胸鰭を欠く。第三下鰓骨は前方を向き、第三角鰓骨と鋭角を成す。椎骨は110-205個。
ホラアナゴ科は3亜科に細分され、Nelson(2006)の体系において10属32種が認められている[2]。本稿では、FishBase[3]に記載される12属38種についてリストする。
リュウキュウホラアナゴ亜科 Ilyophinae は7属22種で構成される。アサバホラアナゴ属など一部は、かつては独立の科として分類されていた。
下顎は上顎よりも短く、リュウキュウホラアナゴ属の一部を除いて鱗をもたない[2]。頭部は上下に平たく縦扁し、やや丸みを帯びる[2]。鋤骨の歯は比較的長く、大きい[5]。アサバホラアナゴ属の一部および Thermobiotes 属は胸鰭を欠く[2]。
ホラアナゴ亜科 Synaphobranchinae にはNelson(2006)の体系において2属9種[2]、FishBaseには4属11種が記載される[3]。属数の違いは、Diastobranchus 属および Histiobranchus 属を独立の属とみなすか、ホラアナゴ属のシノニムとして扱うかによる[9]。
両側の鰓の開口部が腹部でつながっていることが大きな特徴で[2]、本科の英名である「cutthroat eel(喉裂きウナギ)」の由来となっている[5]。
下顎は上顎よりも長く、Haptenchelys 属以外は鱗をもつ[2]。頭部は縦扁し、吻(口先)はややとがる[2]。歯は小さく針状[2]。腹部の体色は暗く、背側は白色調となっている[2]。
コンゴウアナゴ亜科 Simenchelyinae は1属1種で、コンゴウアナゴ S. parasitica のみを含む。本種は世界中に分布するが、その範囲はとびとびで、実際には複数種を混同している可能性が指摘されている[5]。
沈降した生物の遺骸を主な餌とする腐肉食性の深海魚で[2]、ヌタウナギの仲間と並び、深海の生態系で重要な位置を占めている。鱗は皮膚に埋もれ、体表面は粘液質でぶよぶよしている[2]。頭部は全体的に丸みを帯びる[2]。
ホラアナゴ科(学名:Synaphobranchidae)は、ウナギ目に所属する魚類の分類群の一つ。ホラアナゴ・コンゴウアナゴなど、底生性の深海魚を中心に3亜科10属32種が含まれる。科名の由来は、ギリシア語の「synaphe(つながった)」と「brangchia(鰓)」から。
긴꼬리장어과(Synaphobranchidae)는 뱀장어목에 속하는 조기어류 과의 하나이다.[1] 전세계의 온대와 열대 바다에서 발견된다. 긴꼬리장어류는 몸길이가 23~160 cm 정도이다. 저생어류로 수심 약 3,700m 이하의 심해에서 발견된다.[2] 이들은 유생(幼生) 단계에서 튀어 나온 눈의 유무를 통해 구별할 수 있다. 일부 분류 체계(예를 들어, ITIS)는 시멘켈리스속(Simenchelys)을 별도의 과 세멘케릴리스과(Simenchelyidae)로 분류한다.
2013년 현재, 계통 분류는 다음과 같다.[3]
뱀장어목 곰치아목긴꼬리장어과(Synaphobranchidae)는 뱀장어목에 속하는 조기어류 과의 하나이다. 전세계의 온대와 열대 바다에서 발견된다. 긴꼬리장어류는 몸길이가 23~160 cm 정도이다. 저생어류로 수심 약 3,700m 이하의 심해에서 발견된다. 이들은 유생(幼生) 단계에서 튀어 나온 눈의 유무를 통해 구별할 수 있다. 일부 분류 체계(예를 들어, ITIS)는 시멘켈리스속(Simenchelys)을 별도의 과 세멘케릴리스과(Simenchelyidae)로 분류한다.