Thân mềm hai mảnh vỏ hay nhuyễn thể hai mảnh vỏ (danh pháp khoa học: Bivalvia, trước đây gọi là Lamellibranchia hay Pelecypoda) hay lớp Chân rìu là một lớp động vật thân mềm. Chúng không có đầu, cũng như dải răng kitin. Lớp này gồm các loài nghêu, hàu, sò nứa, trai, điệp, và một số khác; một phần sống ở nước mặn, phần còn lại ở nước ngọt. Đa số là động vật ăn lọc. Mang tiến hóa thành một bộ phận gọi là ctenidium, một cơ quan dùng để ăn và thở. Chúng thường chôn mình trong trầm tích, nơi chúng tương đối an toàn trước kẻ thù. Một số, như điệp, có thể bơi.
Vỏ được cấu tạo từ canxi cacbonat và gồm hai mảnh được dính với nhau. Hai mảnh vỏ thường đối xứng hai bên, kích thước vỏ biến thiên từ dưới một milimet tới hơn một mét, dù đa số không vượt quá 10 cm (4 in).
Thuật ngữ Bivalvia được sử dụng lần đầu tiên bởi Linnaeus trong ấn bản thứ mười của tác phẩm Systema Naturae năm 1758 để chỉ những động vật có hai mảnh vỏ.[3] Trước đây, chúng còn có tên Pelecypoda, nghĩa là "chân rìu" (dựa trên hình dạng của chân khi vươn ra).
Chiều dài tối đa khi trưởng thành của các loài hai mảnh vỏ biến thiên từ 0,52 mm (0,02 in) ở Condylonucula maya,[4] tới 1.532 milimét (60,3 in) ở Kuphus polythalamia.[5] Tuy nhiên, loài thường được xem là động vật hai mảnh vỏ lớn nhất còn tồn tại là Tridacna gigas, có thể đạt chiều dài 1.200 mm (47 in) và khối lượng 200 kg (441 lb).[6] Loài đã tuyệt chủng lớn nhất được biết tới là Platyceramus với hóa thạch dài 3.000 mm (118 in).[7]
Trong bài luận án năm 2010, Compendium of Bivalves, Markus Huber cho rằng số động vật hai mảnh vỏ còn tồn tại là 9.200 loài kết hợp từ 106 họ.[8]
Phân lớp Siêu họ Họ Chi Loài Heterodonta 64 (1 ở nước ngọt) &0800800 (16 ở nước ngọt) &56005600 (270 ở nước ngọt) Arcticoidea 2 &00066 &001313 Cardioidea 2 &003838 &0260260 Chamoidea 1 &00066 &007070 Clavagelloidea 1 &00022 &002020 Crassatelloidea 5 &006565 &0420420 Cuspidarioidea 2 &002020 &0320320 Cyamioidea 3 &002222 &0140140 Cyrenoidea 1 &00066 (3 ở nước ngọt) &006060 (30 ở nước ngọt) Cyrenoidoidea 1 &00011 &00066 Dreissenoidea 1 &00033 (2 ở nước ngọt) &002020 (12 ở nước ngọt) Galeommatoidea ca. 4 &0100chừng 100 &0500chừng 500 Gastrochaenoidea 1 &00077 &003030 Glossoidea 2 &002020 &0110110 Hemidonacoidea 1 &00011 &00066 Hiatelloidea 1 &00055 &002525 Limoidea 1 &00088 &0250250 Lucinoidea 2 &0085chừng 85 &0500chừng 500 Mactroidea 4 &004646 &0220220 Myoidea 3 &001515 (1 ở nước ngọt) &0130130 (1 ở nước ngọt) Pandoroidea 7 &003030 &0250250 Pholadoidea 2 &003434 (1 ở nước ngọt) &0200200 (3 ở nước ngọt) Pholadomyoidea 2 &00033 &002020 Solenoidea 2 &001717 (2 ở nước ngọt) &0130130 (4 ở nước ngọt) Sphaerioidea (1 ở nước ngọt) &0005(5 ở nước ngọt) &0200(200 ở nước ngọt) Tellinoidea 5 &0110110 (2 ở nước ngọt) &0900900 (15 ở nước ngọt) Thyasiroidea 1 &0012chừng 12 &0100chừng 100 Ungulinoidea 1 &001616 &0100100 Veneroidea 4 &0104104 &0750750 Verticordioidea 2 &001616 &0160160 Palaeoheterodonta 7 (6 ở nước ngọt) &0171171 (170 ở nước ngọt) &0908908 (900 ở nước ngọt) Trigonioidea 1 &00011 &00088 Unionoidea (6 ở nước ngọt) &0170(170 ở nước ngọt) &0900(900 ở nước ngọt) Protobranchia 10 &004949 &0700700 Manzanelloidea 1 &00022 &002020 Nuculanoidea 6 &003232 &0460460 Nuculoidea 1 &00088 &0170170 Sapretoidea 1 &0005chừng 5 &001010 Solemyoidea 1 &00022 &003030 Pteriomorpha 25 &0240240 (2 ở nước ngọt) &20002000 (11 ở nước ngọt) Anomioidea 2 &00099 &003030 Arcoidea 7 &006060 (1 ở nước ngọt) &0570570 (6 ở nước ngọt) Dimyoidea 1 &00033 &001515 Limoidea 1 &00088 &0250250 Mytiloidea 1 &005050 (1 ở nước ngọt) &0400400 (5 ở nước ngọt) Ostreoidea 2 &002323 &008080 Pectinoidea 4 &006868 &0500500 Pinnoidea 1 &00033 (+) &005050 Plicatuloidea 1 &00011 &002020 Pterioidea 5 &00099 &008080Đây là một lớp động vật không xương sống hết sức thành công, hiện diện ở hầu khắp các môi trường thủy sinh. Đa số là động vật sống dưới đáy nước và thường chôn mình dưới trầm tích ở đáy nước. Một lượng lớn loài hai mảnh vỏ được tìm thấy ở vùng triều hay gần bờ. Tại một bãi biển ở Nam Wales, một cuộc kiểm tra cẩn thận cho thấy có 1,44 triệu cá thể Cerastoderma edule trên mỗi mẫu Anh.[9]
Chúng sinh sống ở vùng nhiệt đới, ôn đới và cả vùng cực. Một số có thể sống sót hay thậm chí phát triển trong môi trường khắc nghiệt. Chúng phong phú ở Bắc Cực, với chừng 140 loài đã được biết tới.[10] Adamussium colbecki sống dưới biển băng tại Nam Cực, nơi nhiệt độ âm làm tốc độ phát triển của chúng chậm lại.[11] Bathymodiolus thermophilus và Calyptogena magnifica đều sống quanh miệng phun thủy nhiệt tại vùng biển thẳm ở Thái Bình Dương.[12] Enigmonia aenigmatica là một loài hàu có thể sống lưỡng cư. Chúng sống trên mức triều cường dưới những chiếc lá, những nhánh cây ngập mặn tại vùng nhiệt đới Ấn Độ-Thái Bình Dương.[13]
Vài loài nước ngọt có phân bố rất hạn chế. Ví dụ, Villosa arkansasensis chỉ hiện diện tại những dòng nước từ dãy Ouachita ở Arkansas và Oklahoma, và như nhiều thân mềm hai mảnh vỏ khác ở miền đông nam Hoa Kỳ, chúng đang có nguy cơ tuyệt chủng.[14] Ngược lại, một số khác, như Limnoperna fortunei đang tăng nhanh phạm vi phân bố. L. fortunei có mặt từ Đông Nam Á tới Argentina, nơi chúng là một loài xâm lấn.[15]
(tiếng Việt)
Thân mềm hai mảnh vỏ hay nhuyễn thể hai mảnh vỏ (danh pháp khoa học: Bivalvia, trước đây gọi là Lamellibranchia hay Pelecypoda) hay lớp Chân rìu là một lớp động vật thân mềm. Chúng không có đầu, cũng như dải răng kitin. Lớp này gồm các loài nghêu, hàu, sò nứa, trai, điệp, và một số khác; một phần sống ở nước mặn, phần còn lại ở nước ngọt. Đa số là động vật ăn lọc. Mang tiến hóa thành một bộ phận gọi là ctenidium, một cơ quan dùng để ăn và thở. Chúng thường chôn mình trong trầm tích, nơi chúng tương đối an toàn trước kẻ thù. Một số, như điệp, có thể bơi.
Vỏ được cấu tạo từ canxi cacbonat và gồm hai mảnh được dính với nhau. Hai mảnh vỏ thường đối xứng hai bên, kích thước vỏ biến thiên từ dưới một milimet tới hơn một mét, dù đa số không vượt quá 10 cm (4 in).