dcsimg

Rồng Komodo ( Vietnamese )

provided by wikipedia VI

Rồng Komodo (Varanus komodoensis) là một loài thằn lằn lớn được tìm thấy ở đảo Komodo, Rinca, Flores, Gili Motang, và Padar.[4] Nó là thành viên của Họ Kỳ đà (Varanidae), và là loài thằn lằn lớn nhất còn sinh tồn, chiều dài tối đa 3 mét (10 ft) trong vài trường hợp hiếm và nặng khoảng 70 kilôgam (150 lb).[4]

Kích thước lớn bất thường của chúng tượng trưng cho sinh vật khổng lồ đảo, khi không có sinh vật ăn thịt lớn nào chiếm hốc sinh thái trên đảo mà chúng sống.[5][6] Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy rồng Komodo có thể xem như một quần thể còn sót của một loài kỳ đà rất lớn từng sống tại Indonesia và Australia, cùng với các động vật lớn,[1] tuyệt chủng sau Pleistocene. Các hóa thạch này rất giống V. komodoensis tìm thấy ở Australia cách đây hơn 3.8 triệu năm ở đảo Flores.

Nhờ kích thước lớn, loài thằn lằn này chiếm giữ hệ sinh thái mà chúng sống.[7] Rồng Komodo săn các loài động vật không xương sống, chim, và động vật có vú. Chúng có hai tuyến nọc độc ở hàm dưới tiết ra nhiều loại protein độc. Tập tục săn mồi theo nhóm của rồng Komodo là ngoại lệ trong thế giới bò sát. Chế độ ăn uống của rồng Komodo lớn chủ yếu gồm hươu nai và xác thối.[4] Rồng Komodo đôi khi cũng tấn công con người tại khu vực tây Manggarai.[8]

Mùa giao phố bắt đầu từ giữa tháng 5 và tháng 8, và đẻ trứng vào tháng 9. Khoảng 20 trứng được đẻ vào tổ các loài thuộc họ Gà tây bị bỏ hay các hang do chúng tự đào.[4] Trứng ấp trong bảy hay chín tháng, nở vào tháng 4, khi côn trùng phong phú nhất. Rồng Komodo non dễ bị thương tổn vì vậy thường trốn trên cây, an toàn khỏi động vật ăn thịt và các con trưởng thành ăn thịt đồng loại. Chúng cần 8 tới 9 năm để trưởng thành, và được cho sống tới 30 năm.[4]

Rồng Komodo được ghi nhận lần đầu bởi một nhà khoa học phương tây năm 1910.[9] Kích thước lớn khiến chúng thường được nuôi trong vườn thú. Trong tự nhiên, phạm vi sinh sống của chúng thu nhỏ do các hoạt động của con người, chúng được liệt kê vào danh sách sắp nguy cấp bởi IUCN.[2] Rồng Komodo được bảo vệ theo pháp luật Indonesia, và vườn quốc gia Komodo.

Từ nguyên

Rồng Komodo còn được gọi là kỳ đà Komodo hay kỳ đà đảo Komodo trong văn bản khoa học,[10] mặc dù điều này không phổ biến. Chúng có nguồn gốc từ đảo Komodo, ở đó chúng được gọi là ora, buaya darat (cá sấu đất), hay biawak raksasa (kỳ đà khổng lồ).[11][12]

Mô tả

 src=
Chụp gần một con rồng Komodo
 src=
Chụp gần da rồng Komodo

Trong hoang dã, rồng Komodo trưởng thành thường nặng khoảng 70 kg (150 lb), mặc dù những có thể nuôi nhốt thường nặng hơn.[13] Theo Sách Kỷ lục Guinness, một con đực trưởng thành trung bình nặng 79 đến 91 kg (174 đến 201 lb) và dài 2,59 m (8,5 ft), trong khi con cái nặng 68 đến 73 kg (150 đến 161 lb) và dài 2,29 m (7,5 ft).[14] Cá thể hoang dã lớn nhất được thẩm định dài 3,13 m (10,3 ft) và nặng tới 166 kg (366 lb), bao gồm cả thức ăn chưa tiêu hóa hết.[12] Rồng Komodo có đuôi dài bằng phần thân,răng cưa dài khoảng 2,5 cm (1 in). Nước bọt của nó thường xuyên có máu, bởi vì răng của hầu như hoàn toàn được bao phủ bởi mô nướu do đó thường bị rách khi ăn.[15] Điều này tạo môi trường sống cho vi khuẩn sống trong miệng của nó.[16] Nó cũng có một cái lưỡi dài, vàng hình chạc hai.[12] Da của rồng Komodo được gai cố bởi các vảy cứng, chứa những xương nhỏ được gọi là osteoderm có tác dụng như một bộ áo giáp xích tự nhiên.[17][18]

Giác quan

Như các loài Varanidae khác, rồng Komodo chỉ có một xương tai đơn là xương bàn đạp, chuyển rung động từ màng tai tới ốc tai. Chúng bị hạn chế với âm thanh có tần số từ 400 tới 2,000 hertz, trong khi con người là từ 20 tới 20,000 hertz.[12][19] Trước đây các nhà nghiên cứu cho rằng chúng bị điếc khi họ thấy chúng không phản ứng với tiếng nói hay hét. Một nhân viên khiếm thị của Sở thú London, Joan Proctor, có thể gọi rồng Komodo ra để cho ăn bằng tiếng nói, điều này đã gây tranh cãi.[20]

Rồng Komodo có thể nhìn từ khoảng cách 300 m (980 ft), nhưng bởi màng lưới chỉ có tế bào hình nón, nó được cho là có tầm nhìn đêm không tốt. Rồng Komodo nhìn được màu, nhưng có khi vật bất động thì chúng có khả năng phân biệt khá tệ.[21]

Rồng Komodo dùng lưỡi để thử không khí

Rồng Komodo dùng lưỡi để dò tìm, nếm không khí, và ngửi, như các loài bò sát khác, chúng thường dùng cơ quan Jacobson hơn dùng lỗ mũi.[16] Với sự trợ giúp của không khí và thói quen đung đưa đầu từ bên này sang bên kia, rồng Komodo có thể đánh hơi được một cái xác thối cách xa từ 4–9,5 km (2,5–5,9 mi).[21]

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ a ă Hocknull SA, Piper PJ, van den Bergh GD, Due RA, Morwood MJ, Kurniawan I (2009). “Dragon's Paradise Lost: Palaeobiogeography, Evolution and Extinction of the Largest-Ever Terrestrial Lizards (Varanidae)” (Free full text). PLoS ONE 4 (9): e7241. PMC 2748693. PMID 19789642. doi:10.1371/journal.pone.0007241.
  2. ^ a ă World Conservation Monitoring Centre (1996). Varanus komodoensis. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2011.1. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2011.
  3. ^ Ouwens, P.A. (1912). “On a large Varanus species from the island of Komodo”. Bull. Jard. Bot. Buit. 2 (6): 1–3.
  4. ^ a ă â b c Ciofi, Claudio (2004). Varanus komodoensis. Varanoid Lizards of the World (Bloomington & Indianapolis: Indiana University Press). tr. 197–204. ISBN 0-253-34366-6.
  5. ^ Chris Mattison, (1989 & 1992). Lizards of the World. New York: Facts on File. tr. 16, 57, 99, 175. ISBN 0-8160-5716-8. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  6. ^ Burness G, Diamond J, Flannery T (2001). “Dinosaurs, dragons, and dwarfs: The evolution of maximal body size” (Free full text). Proc Natl Acad Sci USA 98 (25): 14518–23. ISSN 0027-8424. PMC 64714. PMID 11724953. doi:10.1073/pnas.251548698.
  7. ^ Tim Halliday (Editor), Kraig Adler (Editor) (2002). Firefly Encyclopedia of Reptiles and Amphibians. Hove: Firefly Books Ltd. tr. 112, 113, 144, 147, 168, 169. ISBN 1-55297-613-0.
  8. ^ Markus Makur, 'Giant lizard attack: Komodo dragon bites elderly woman on Rinca island', The Jakarta Post, ngày 13 tháng 10 năm 2012. 2 hospitalized in Indonesia after Komodo attack', The Jakarta Post, ngày 7 tháng 2 năm 2013.
  9. ^ Varanus komodoensis. Mampam.com (ngày 24 tháng 8 năm 2007). Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2012.
  10. ^ Varanus komodoensis (TSN 202168) tại Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS).
  11. ^ “Ora (Komodo Island Monitor or Komodo Dragon)”. American Museum of Natural History. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2007.
  12. ^ a ă â b Ciofi, Claudio. “The Komodo Dragon”. Scientific American. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2006.
  13. ^ Burnie, David; Don E. Wilson (2001). Animal. New York: DK Publishing. tr. 417, 420. ISBN 0-7894-7764-5.
  14. ^ Wood, Gerald (1983). The Guinness Book of Animal Facts and Feats. ISBN 978-0-85112-235-9.
  15. ^ Tara Darling (Illustrator). Komodo Dragon: On Location (Darling, Kathy. on Location.). Lothrop, Lee and Shepard Books. ISBN 0-688-13777-6.
  16. ^ a ă “Komodo Dragon”. Singapore Zoological Gardens. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2006.
  17. ^ Komodo Dragons. London Zoo
  18. ^ Komodo Dragon, Varanus komodoensis 1998. Physical Characteristics. San Diego Zoo Global Zoo (1998).
  19. ^ “Komodo Conundrum”. BBC. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2007.
  20. ^ David Badger; photography by John Netherton (2002). Lizards: A Natural History of Some Uncommon Creatures, Extraordinary Chameleons, Iguanas, Geckos, and More. Stillwater, MN: Voyageur Press. tr. 32, 52, 78, 81, 84, 140–145, 151. ISBN 0-89658-520-4.
  21. ^ a ă “Komodo Dragon Fact Sheet”. National Zoological Park. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2007.

Nghiên cứu thêm

 src= Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Rồng Komodo  src= Wikispecies có thông tin sinh học về Rồng Komodo
  • Attenborough, David (1957). Zoo Quest for a Dragon. London: Lutterworth Press.
  • Auffenberg, Walter (1981). The Behavioral Ecology of the Komodo Monitor. Gainesville: University Presses of Florida. ISBN 0-8130-0621-X.
  • Burden, W. Douglas (1927). Dragon Lizards of Komodo: An Expedition to the Lost World of the Dutch East Indies. Kessinger Publishing. ISBN 0-7661-6579-5.
  • Eberhard, Jo; King, Dennis; Green, Brian; Knight, Frank; Keith Newgrain (1999). Monitors: The Biology of Varanid Lizards. Malabar, Fla: Krieger Publishing Company. ISBN 1-57524-112-9.
  • Lutz, Richard L; Lutz, Judy Marie (1997). Komodo: The Living Dragon. Salem, Or: DiMI Press. ISBN 0-931625-27-0.
license
cc-by-sa-3.0
copyright
Wikipedia tác giả và biên tập viên
original
visit source
partner site
wikipedia VI

Rồng Komodo: Brief Summary ( Vietnamese )

provided by wikipedia VI

Rồng Komodo (Varanus komodoensis) là một loài thằn lằn lớn được tìm thấy ở đảo Komodo, Rinca, Flores, Gili Motang, và Padar. Nó là thành viên của Họ Kỳ đà (Varanidae), và là loài thằn lằn lớn nhất còn sinh tồn, chiều dài tối đa 3 mét (10 ft) trong vài trường hợp hiếm và nặng khoảng 70 kilôgam (150 lb).

Kích thước lớn bất thường của chúng tượng trưng cho sinh vật khổng lồ đảo, khi không có sinh vật ăn thịt lớn nào chiếm hốc sinh thái trên đảo mà chúng sống. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy rồng Komodo có thể xem như một quần thể còn sót của một loài kỳ đà rất lớn từng sống tại Indonesia và Australia, cùng với các động vật lớn, tuyệt chủng sau Pleistocene. Các hóa thạch này rất giống V. komodoensis tìm thấy ở Australia cách đây hơn 3.8 triệu năm ở đảo Flores.

Nhờ kích thước lớn, loài thằn lằn này chiếm giữ hệ sinh thái mà chúng sống. Rồng Komodo săn các loài động vật không xương sống, chim, và động vật có vú. Chúng có hai tuyến nọc độc ở hàm dưới tiết ra nhiều loại protein độc. Tập tục săn mồi theo nhóm của rồng Komodo là ngoại lệ trong thế giới bò sát. Chế độ ăn uống của rồng Komodo lớn chủ yếu gồm hươu nai và xác thối. Rồng Komodo đôi khi cũng tấn công con người tại khu vực tây Manggarai.

Mùa giao phố bắt đầu từ giữa tháng 5 và tháng 8, và đẻ trứng vào tháng 9. Khoảng 20 trứng được đẻ vào tổ các loài thuộc họ Gà tây bị bỏ hay các hang do chúng tự đào. Trứng ấp trong bảy hay chín tháng, nở vào tháng 4, khi côn trùng phong phú nhất. Rồng Komodo non dễ bị thương tổn vì vậy thường trốn trên cây, an toàn khỏi động vật ăn thịt và các con trưởng thành ăn thịt đồng loại. Chúng cần 8 tới 9 năm để trưởng thành, và được cho sống tới 30 năm.

Rồng Komodo được ghi nhận lần đầu bởi một nhà khoa học phương tây năm 1910. Kích thước lớn khiến chúng thường được nuôi trong vườn thú. Trong tự nhiên, phạm vi sinh sống của chúng thu nhỏ do các hoạt động của con người, chúng được liệt kê vào danh sách sắp nguy cấp bởi IUCN. Rồng Komodo được bảo vệ theo pháp luật Indonesia, và vườn quốc gia Komodo.

license
cc-by-sa-3.0
copyright
Wikipedia tác giả và biên tập viên
original
visit source
partner site
wikipedia VI